Ở mức độ năng lượng khá cao này, tâm lý tiêu cự không thể tác động đến bạn được nữa, và bạn có khuynh hướng chiêu cảm các tình huống mới phản ánh tần số cao này. Khi bạn chối bỏ tình cảm đau khổ, thì mọi việc bạn làm, mọi điều bạn nghĩ, cũng như cái mối quan hệ của bạn đều bị ô nhiễm bởi đau khổ ấy. Cái tương đương nội tại với các sự vật trong không gian như đồ đạc, tranh ảnh, tường vách, và vân vân chính là các đối tượng trong tâm trí của bạn: các ý nghĩ, các xúc cảm, và đối tượng của các giác quan.
Đây là phép lạ của sự vâng phục. Và cái tương đương nội tại vối không gian là ý thức cho phép các đối tượng của tâm trí hiện hữu. Ý thức tập trung vào cơ thể nội tại càng nhiều, thì tần số rung động của nó càng cao, giống như ngọn đèn càng sáng thêm khi bạn vặn nút biến trở đế gia tăng cường độ dòng điện vậy.
Nếu bạn phải như thế, bạn có thể chuyển động nhanh, làm việc nhanh, thậm chí chạy vội đi, nhưng đừng phóng chiếu bản thân vào tương lai và không phản kháng cái hiện tại. Nó đã manh nha sẵn từ thời Chúa Jesus, và từ năm 600 năm trước vào thời Đức Phật, và rất lâu trước đó nữa. Vô tình bạn bị đồng hóa với nó, cho nên bạn không hề biết mình là nô lệ của nó.
Bất kể là tiếng còi ô tô, người thô lỗ, nạn lụt, địa chấn, hay mất mát toàn bộ gia sản, thì cơ chế phản kháng cũng chẳng khác gì nhau. Tình hình này đặc biệt đúng khi sự việc gì đó “hóa ra bất ổn” hay khi bạn bị mất mát hoặc gặp phải rắc rối nào đó. Dành khoảng không gian cho người khác – và cho chính bạn – là điều kiện tối cần thiết.
Chính sự ngộ nhận về cái thực tại tinh túy vốn vượt ra ngoài vòng sinh tử của bạn, và tình trạng đánh mất sự kết nối với Bản thể hiện tiền do các hạn chế của tâm trí đã khiến cho thân xác được xem là chứng cứ cho niềm tin hão huyền của tâm trí bạn vốn ẩn giấu vẻ tráng lệ của cái thực tại tinh túy và bất diệt của bạn. Bằng cách tìm hiểu cho rõ khuôn mẫu này, bằng cách là chứng nhân của nó, bạn sẽ giải trừ được tình trạng bị đồng hóa với nó. Nhưng rồi một mối quan hệ thật đặc biệt xuất hiện.
Thường thì tương lai là bản sao của quá khứ. Bạn là toàn bộ cái hồ nước, không phải chỉ là mặt hồ, và bạn đang kết nối với phần sâu thẳm của chính mình, vốn vẫn tuyệt đối tĩnh lặng. Đừng chú tâm đến bất cứ thứ gì khác trên con đường tìm cầu Chân Lý, bởi vì bạn sẽ không tìm thấy nó ở bất cứ nơi đâu ngoài thân xác của bạn.
Bạn đã biết rõ cơ chế căn bản của trạng thái mê muội bất thức: sự đồng hóa với tâm trí tạo ra cái tôi giả lập, cái tự ngã, như là thứ thay thế cho cái bản ngã đích thực của bạn vốn bắt rễ ở Bản thể hiện tiền. Khoan thứ có nghĩa là từ bỏ mối bất bình ôm ấp trong lòng bạn, nhờ đó buông bỏ được nỗi đau buồn. Nếu bạn không thể trụ ở hiện tiền ngay cả trong các tình huống bình thường, như khi bạn ngồi một mình trong phòng, đi dạo trong rừng, hay lắng nghe ai đó nói chuyện chẳng hạn, thì bạn nhất định sẽ không tỉnh thức khi gặp phải sự việc gì đó “hoá ra tệ hại”, hay khi bạn phải giáp mặt với những con người khó chịu hay tình hình khó khăn, đối mặt với sự mất mát hay đe doạ mất mát.
Ở khía cạnh cá nhân, nó là phần lắng đọng tích lũy các nối đau khổ phải gánh chịu trong quá khứ riêng của từng cá nhân. Bạn không cần đến chúng đem lại cho bạn cảm nhận về cái tôi của mình. Bao lâu bạn còn bị vướng mắc hoàn toàn trong nhân cách hữu tướng của mình, tình thương không thể hiện hữu ở trong người bạn.
Trong nhiều năm qua họ đã bất thức định nghĩa toàn bộ nhân thân của mình vằng các vấn đề hay đau khổ của chính họ. Chú ý hữu thức lâu dài sẽ cắt đứt mối liên hệ giữa cái quầng chứa nhóm đau khổ và các tiến trình suy nghĩ của bạn, từ đó nảy sinh tiến trình chuyển hóa. Bạn hãy ra ngoài trời vào một đêm trong trẻo để ngước nhìn bầu trời.
Họ đang khôi phục thế cân bằng giữa nam giới và nữ giới vốn đã mất đi rất lâu trước đây, và việc làm đó là tốt. Cả hai chẳng khác biệt nhau cho lắm. Nhằm mục đích gì? Phải chăng nhân vật hay thứ gì đó đang bày cuộc chơi, một cuộc chơi đầy dẫy các sắc tướng? Đây là điều mà những người truy cầu chân lý thời cổ ở Ấn Độ tự hỏi bản thân họ.